Quyền ghép bộ phận cơ thể người có liên quan đến người nước ngoài được quy định tại Điều 34 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác số 75/2006/QH11, cụ thể như sau:
“Điều 34. Ghép bộ phận cơ thể người có liên quan đến người nước ngoài
1. Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được ghép bộ phận cơ thể của người Việt Nam tại Việt Nam trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người hiến hoặc trong trường hợp người hiến đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu đích danh người được ghép.
2. Người Việt Nam chỉ được ra nước ngoài để hiến bộ phận cơ thể người trong trường hợp có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời với người được ghép.”
Bên cạnh đó, Điều 30 Luật Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác số 75/2006/QH11 cũng quy định về điều kiện chung đối với người được ghép mô, bộ phận cơ thể người như sau:
“Điều 30. Điều kiện đối với người được ghép mô, bộ phận cơ thể người
1. Có chỉ định ghép của cơ sở y tế được ghép mô, bộ phận cơ thể người.
2. Có đơn tự nguyện xin ghép. Đối với người dưới mười tám tuổi phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó.
3. Đối với trường hợp ghép bộ phận cơ thể không tái sinh ở người sống phải được sự đồng ý bằng văn bản của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ phận cơ thể người.”
Như vậy, bạn được quyền ghép thận và chồng bạn có quyền nhận ghép thận từ bạn nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Bạn đã có đơn tự nguyện hiến mà không nêu đích danh người được ghép;
- Có chỉ định ghép của cơ sở y tế được ghép mô, bộ phận cơ thể người.
- Có đơn tự nguyện xin ghép của chồng bạn;
- Được sự đồng ý bằng văn bản của Hội đồng tư vấn lấy, ghép bộ phận cơ thể người.