Việc ký kết hợp đồng lao động đối với người giúp việc gia đình được quy định tại Điều 5 Nghị định số 27/2014/NĐ-CP, cụ thể như sau:
“Điều 5. Ký kết hợp đồng lao động
1. Khi ký kết hợp đồng lao động với người lao động không biết chữ, người sử dụng lao động đọc toàn bộ nội dung hợp đồng lao động để người lao động nghe và thống nhất nội dung trước khi ký hợp đồng lao động; trường hợp cần thiết người lao động yêu cầu người sử dụng lao động mời người thứ ba không phải là thành viên của hộ gia đình làm chứng trước khi ký hợp đồng lao động.
2. Trường hợp người sử dụng lao động có thuê mướn, sử dụng nhiều lao động là người giúp việc gia đình thì người sử dụng lao động ký kết hợp đồng lao động với từng người lao động.
3. Hợp đồng lao động được lập ít nhất thành hai bản, người sử dụng lao động giữ một bản, người lao động giữ một bản.
4. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo với Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người lao động làm việc về việc sử dụng lao động là người giúp việc gia đình.”
Mặt khác, Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 88/2015/NĐ-CP còn quy định phạt tiền người sử dụng lao động khi không giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản đối với công việc có thời hạn trên 3 tháng với mức phạt cụ thể là từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng
Như vậy, pháp luật hiện hành quy định, đối với người giúp việc gia đình thì người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động bằng văn bản. Nếu vi phạm thì sẽ bị xử phạt với mức phạt cụ thể là từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.