hieuluat
hoi dap

Thư viện câu hỏi

Tổng hợp các câu hỏi pháp lý thường gặp, các tình huống pháp lý thực tế gửi về Vanbanluat

Vợ giả chữ ký của chồng để thế chấp nhà ở có phạm tội không?

Câu hỏi: Xin hỏi Vanbanluat.com: Vì ham lãi hàng tháng nên bà vợ đã lấy sổ đỏ của gia đình để thế chấp, mà không nhận được sự đồng ý của chồng và đã giả chữ ký của chồng. Vậy Ban tư vấn cho tôi hỏi, trường hợp này nếu ông chồng khởi kiện để đòi lại căn nhà trên thì người vợ trên có phạm tội lừa đảo chiểm đoạt tài sản không?

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến hieuluat.vn, Ban tư vấn của hieuluat.vn xin trả lời bạn như sau:   

Đối với trường hợp trên, xét trong quan hệ dân sự thì căn nhà là tài sản chung của vợ chồng nên khi thế chấp căn nhà này bắt buộc phải được sự đồng ý của cả vợ và chồng. Nếu người vợ “đã lấy sổ đỏ của gia đình để thế chấp, mà không nhận được sự đồng ý của chông và đã giả chữ ký của chồng” thì việc thế chấp trên là hành vi lừa đảo, thẩm quyền ký kết hợp đồng không đúng đối tượng nên hợp đồng sẽ bị tuyên vô hiệu, các bên trả lại cho nhau những gì đã nhận.

Tuy nhiên, trường hợp này còn vi phạm quy định trong lĩnh vực ngân hàng: người vợ giả chữ ký để lừa đảo bên ngân hàng để nhận khoản tiền thế chấp. Nếu bên ngân hàng kiện ngược lại người vợ vì đã làm hợp đồng giả mạo để nhận khoản tiền thế chấp trên thì xét hành vi vi phạm của người vợ, người vợ có thể phạm vào tội "tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" được quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 như sau:

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

n) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Như vậy, đối với trường hợp trên, nếu ông chồng khởi kiện để đòi lại căn nhà trên thì người vợ trên có khả năng bị khởi tố về tội phạm tội lừa đảo chiểm đoạt tài sản.

Lưu ý: Nội dung tư vấn trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách pháp luật. Mọi thắc mắc, góp ý xin vui lòng liên hệ về email: tuvan@vanbanluat.com
X