hieuluat

Sắc lệnh 22B-NV/PC để quyền tư pháp cho UBHC ở những nơi chưa đặt được toà án biệt lập

  • Thuộc tính văn bản

    Cơ quan ban hành:Chủ tịch nướcSố công báo:Đang cập nhật
    Số hiệu:22BNgày đăng công báo:Đang cập nhật
    Loại văn bản:Sắc lệnhNgười ký:Hồ Chí Minh
    Ngày ban hành:18/02/1946Hết hiệu lực:30/04/1975
    Áp dụng:Đang cập nhậtTình trạng hiệu lực:Hết Hiệu lực
    Lĩnh vực:Đang cập nhật
  • SắC LệNH

    SẮC LỆNH

    CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI
    NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
    SỐ 22 B-NV/PC NGÀY 18 THÁNG HAI NĂM 1946

     

    CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

     

    Xét rằng sau ngày khởi nghĩa quyền tư pháp cũng như các quyền khác đã tập trung vào các Uỷ ban nhân dân;

    Chiểu chi Sắc lệnh ngày 24 tháng 1 năm 1946 tổ chức các Toà án biệt lập đối với hành chính và đặt ngạch thẩm phán do Chính phủ bổ nhiệm;

    Nhưng xét rằng các toà án không thể thiết lập ngay tức khắc ở khắp mọi nơi trong nước nên ở những nơi chưa có toà án hãy để Uỷ ban hành chính tạm giữ việc tư pháp, nhưng phải có sự kiểm soát của cơ quan tư pháp,

    Theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

     

    RA SẮC LỆNH:

     

    Điều I: nơi nào chưa thiết lập được những toà án biệt lập theo Sắc lệnh ngày 24 tháng 1 (dương lịch) năm 1946 thì việc tư pháp sẽ tổ chức như sau này:

     

    Điều II: Uỷ ban hành chính tỉnh, phủ, huyện, châu sẽ kiêm việc tư pháp.

    Uỷ ban ấy có thể giao việc tư pháp cho một uỷ viên hay một ban tư pháp phụ trách riêng.

     

    Điều III: Các Uỷ ban hành chính kiêm việc tư pháp xét xử theo các luật lệ hiện hành trừ những điều khoản trái với Sắc lệnh này.

    Uỷ ban tỉnh có quyền hạn như toà án đệ nhị cấp.

    Uỷ ban phủ, huyện, châu có quyền hạn như toà án sơ cấp.

     

    Điều IV: tỉnh các người đương sự có quyền chống án lên Toà Thượng thẩm bằng hai cách:

    1- Khai với Toà án tỉnh bằng đơn, giấy phép hay khai miệng và lấy giấy chứng nhận;

    2- Khai thẳng lên ông Chưởng lý tại Toà Thượng thẩm bằng đơn, giây thép hay khai miệng và lấy giấy chứng nhận;

    Thời hạn chống án theo luật lệ hiện hành.

    Điều V: Toà Thượng thẩm khi phúc lại án cần xét về nội dụng việc kiện, còn về hình thức, nếu có chỗ sai lầm mà không hại đến nội dung vụ án thì Toà Thượng thẩm có thể tuỳ nghi công nhận hiệu lực của bản án bị kháng cáo như không có sự sai lầm ấy.

     

    Điều VI: Về phương diện tư pháp các Uỷ ban phủ, huyện, châu đặt dưới quyền kiểm soát của Uỷ ban tỉnh, và tất cả các Uỷ ban đều thuộc quyền Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chưởng lý và Chánh nhất Toà Thượng thẩm.

     

    Điều VII: nơi nào thiết lập được toà án theo Sắc lệnh ngày 24 tháng 1 (dương lịch) năm 1946 thì Sắc lệnh này sẽ không thi hành nữa.

     

    Điều VIII: Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp chiểu Sắc lệnh thi hành.

     

     

  • Không có văn bản liên quan.

  • Hiệu lực văn bản

    Hiệu lực liên quan

    Văn bản chưa có liên quan hiệu lực
  • File văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Văn bản liên quan

Văn bản mới

X